Ngày 25/02/2021, thông qua mạng xã hội Wechat, Trần Thị L nhắn tin, gọi điện nói chuyện với Vầy Thị N (tên gọi khác: Ng), sinh năm 1989, trú tại bản N, xã B, huyện T, tỉnh Lai Châu hỏi N tìm việc làm bên Trung Quốc giúp L, N gợi ý nếu muốn sang Trung Quốc thì N sẽ sắp xếp người đón và tìm việc làm giúp L, L nói chưa có tiền để trả tiền sang Trung Quốc hẹn khi nào có tiền sẽ trả cho N sau. N nhất trí, sau đó cho L số điện thoại 0354.028.935 là số điện thoại của Lý Phủ P, sinh năm 1998, trú tại bản T, xã M, huyện P, tỉnh Lai Châu là người đưa đón L xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc. Đến ngày 26/02/2021, L tiếp tục liên lạc với N qua ứng dụng Wechat hỏi N ngày 26/02/2021 L và Sỹ Thị P1, sinh năm 1997 trú cùng bản với L muốn sang Trung Quốc, L hỏi N có sang được không? N bảo với L sang được và thông báo với L sẽ cho người đưa đón L và P1, L nhất trí.
Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 27/02/2021, Trần Thị L thông qua điện thoại và ứng dụng zalo liên lạc với Sỹ Thị P1 rủ P1 sang Trung Quốc làm thuê, P1 đồng ý, hẹn L khi nào đi được thì gọi điện cho P1. Khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, L gọi điện cho Vầy Thị N, qua trao đổi N nhất trí và hẹn L khoảng 17,18 giờ chiều cùng ngày có mặt ở cầu H, thị trấn PS, huyện P, tỉnh Lai Châu. Tiền đưa P1 và L sang Trung Quốc, L ước tính trả cho N khoảng 1000 Nhân dân tệ/01 người (tương đương với số tiền 3.493.000 đồng/01 người).
Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 27/02/2021, Lý Phủ P thông qua điện thoại và ứng dụng zalo liên lạc với Vầy Thị N, N thuê P đêm ngày 27/02/2021 đón L và P1 ở thị trấn PS, huyện P, tỉnh Lai Châu để đưa người vượt biên qua mốc 67 xã M, huyện P sang Trung Quốc, giá tiền công đưa 02 người là 800 Nhân dân tệ và nói tìm thêm 01 người để đi cùng, tiền công sẽ do người đàn ông tên L1 (người Trung Quốc) đưa cho P, P nhất trí. Sau đó, P tiếp tục nhắn tin và nói chuyện với N qua ứng dụng zalo hỏi N lại về địa điểm đón L và P1. Đến khoảng 16 giờ 00 phút ngày 27/02/2021, P đi bộ sang nhà Lý A Ng rủ Ng đi đón L và P sang Trung Quốc, P nói với Ng giá tiền công bên Trung Quốc trả 400 Nhân dân tệ 01 người (tương đương với số tiền 1.397.000 đồng/01 người), Ng đồng ý đi cùng P.
Đến khoảng 17 giờ 00 phút ngày 27/02/2021, L gọi điện cho P1 để đi Trung Quốc cùng, P1 đồng ý. Sau đó, L và P1 thuê taxi đến cầu H, thị trấn PS, huyện P. Trong quá trình đi, L gọi điện cho P hẹn đón ở cầu H. Khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày, L và P1 đi đến cầu H gặp P và Ng đi 02 xe mô tô đến đón, P điều khiển xe mô tô chở P1, còn Ng chở L đi về bản T, xã M, huyện P để tìm cách vượt biên qua khu vực mốc 67. Khi đến bản T, lo sợ còn sớm, vượt biên sẽ bị lực lượng chức năng phát hiện, P và Ng chở L và P1 đến nhà Lý A C, anh trai của Ng để đợi trời tối sẽ tìm cách vượt biên. P 1 và L ngồi ở trước cửa nhà C (lúc này C không có ở nhà). Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, P và Ng đi xe mô tô đến đón L và P1 đi theo đường M, bản T đến khu vực mốc 67 để vượt biên sang Trung Quốc (quá trình đi có nghỉ tại dọc đường khoảng 02 tiếng). Đến khoảng 00 giờ 20 phút ngày 28/02/2021, Ng và P điều khiển xe mô tô chở theo sau là L và P1 đang lưu thông theo hướng từ bản T ra suối biên giới để sang Trung Quốc thì bị phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ của Lý Phủ P: 01 xe mô tô chưa có biển kiểm soát, màu đỏ- đen nhãn hiệu HONDA WAVE RSX và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ kèm theo ốp điện thoại; thu giữ của Lý A Ng: 01 xe mô tô nhãn hiệu HonDa BLADE mang BKS 25B1-32646 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu KINMI màu đen; thu giữ của Trần Thị L 01 điện thoại OPPO màu xanh; thu giữ của Sỹ Thị P1 01 điện thoại IPHONE màu vàng.Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKS - P1 ngày 21/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đã truy tố các bị cáo Lý Phủ P, Lý A Ng về tội "Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép" theo quy định tại khoản 1 Điều 348 Bộ luật hình sự.Tại phiên toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lý Phủ P, Lý A Ng phạm tội "Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép"Áp dụng khoản 1 Điều 348, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt mỗi bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/02/2021.Áp dụng khoản 4 Điều 348 Bộ luật hình sự: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.Tại phiên tòa lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của Trần Thị L, Sỹ Thị P1 và phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án, vì vậy có đủ cơ sở kết luận:
Vì tư lợi nên ngày 27/02/2021, thông qua điện thoại và ứng dụng zalo,Vầy Thị N đã thuê Lý Phủ P, Lý A Ng đón Trần Thị L và Sỹ Thị P1 từ cầu Hòa Bình, thị trấn PS, huyện P, tỉnh Lai Châu để đưa P1 và L đến khu vực mốc 67 thuộc địa phận xã M, huyện P, tỉnh Lai Châu mục đích lội suối vượt biên xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc để N được hưởng số tiền khoảng 2.000 Nhân dân tệ (tương đương số tiền 6.980.000 đồng). Khoảng 00 giờ 20 phút ngày 28/02/2021, khi P và Ng chở L và P1 đến khu vực mốc 67(2) + 7.200m thuộc bản T, xã M, huyện P, tỉnh Lai Châu để được nhận số tiền 400 Nhân dân tệ/01 người (tương đương số tiền 1.397.000 đồng/01 người) thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Ma Lù Thàng - Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu phát hiện bắt quả tang.
Hành vi nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực xuất, nhập cảnh và gây ảnh hưởng tới trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Ý thức được điều đó, nhưng vì tư lợi nên đã thúc đẩy các bị cáo phạm tội, các bị cáo đều là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo P là người rủ rê, lôi kéo bị cáo Ng và cùng Ng thực hiện việc cho Trần Thị L và Sỹ Thị P1 xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc. Vì vậy, các bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Căn cứ khoản 1 Điều 348, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đối với các bị cáo: Tuyên bố các bị cáo Lý Phủ P, Lý A Ng phạm tội "Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép".