Tình huống 1
Anh Nam hỏi: vào ngày 12/01/2021, bố anh Nam đã lập 01 bản di chúc (viết tay trên giấy A4), để lại toàn bộ tài sản của ông cho anh. Tuy nhiên bản di chúc này không được công chứng và chứng thực. Đầu năm 2022, bố anh Nam mất, anh trai và chị gái của anh Nam tranh chấp tài sản, yêu cầu chia lại tài sản do bố anh Nam để lại vì họ cho rằng bản di chúc do bố anh Nam lập ngày 12/01/2021 không được công chứng và chứng thực nên không hợp pháp. Anh Nam hỏi di chúc của bố anh lập nêu trên, không được công chứng và chứng thực thì có hợp pháp hay không?
Trả lời:
Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”
Theo quy định trên, di chúc của bố anh Nam được lập bằng văn bản (viết tay trên giấy A4), không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật (Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hình thức của di chúc như sau: “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”).
Tình huống 2
Ngày 20/10/2021, khi đang tham gia giao thông trên đường, anh Hà có va chạm với một xe container bị thương rất nặng. Trên đường đưa anh đi cấp cứu trên xe cứu thương, anh có trăn trối lại trước 01 bác sĩ và 01 điều dưỡng viên rằng “anh có di nguyện để toàn bộ số tiền tiết kiệm anh có trong ngân hàng X cho vợ anh là bà Lan, anh để lại ngôi nhà 03 tầng tại Phường X, quận Y, tỉnh N cho chị Mỹ (người yêu cũ của anh Hà). Hỏi, di nguyện của anh Hà muốn hợp pháp phải thỏa mãn điều kiện nào?
Điều 629 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc miệng như sau:
“ 1. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
2. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ”
Khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”
Như vậy, di nguyện của anh Hà trong tình huống trên hoàn toàn có thể đưa vào di chúc và đảm bảo thực hiện ở dạng di chúc miệng, nếu thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, người di chúc miệng (anh Hà) thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng. Hai người làm chứng phải thỏa mãn điều kiện quy định tại Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc. 2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc. 3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”
Thứ hai, ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ.
Thứ ba, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Như vậy, nếu di chúc của anh Hà thỏa mãn các quy định trên sẽ hợp pháp và phát sinh hiệu lực sau khi anh chết.
Tình huống 3:
Năm 1970, Ông L kết hôn với bà N có 03 người con là A, B và T. Năm 2019, ông L qua đời không để lại di chúc. Năm 2022, 03 người con cùng bà N có họp để thỏa thuận phân chia di sản. Thời điểm đó, di sản của ông xác định được là quyền sở hữu 02 căn nhà và 300 triệu đồng tiền mặt. Khi họp bàn những người thừa kế, bà N, anh B và anh T đều thống nhất quan điểm phân chia di sản theo hướng “02 căn nhà chia cho hai người con trai là anh B và anh T, 300 triệu chia cho 04 người: bà N, anh B, anh T và chị A. Chị A không chấp nhận phương án như vậy vì cho rằng, đã là con thì phải được hưởng như nhau và yêu cầu hai người anh của mình phải thanh toán cho mình phần giá trị tài sản quy đổi thành tiền mà mình được hưởng từ 02 căn nhà. Quan điểm của chị A là đúng hay sai?
Trả lời:
Quan điểm của A trong tình huống trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.
Điều 610 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Chị A, anh B, anh T và bà N cùng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông L, do đó Chị A, anh B, anh T và bà N sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau, yêu cầu của chị A xác định lại phần giá trị tài sản mà mình được hưởng từ 02 căn nhà là phù hợp.
Tình huống 4:
Anh Hoàng là con trai duy nhất của ông Tân. Ngày 01/01/2022, ông Tân chết có để lại di chúc cho anh Hoàng được hưởng toàn bộ di sản thừa kế. Tuy nhiên, trước thời điểm này, do làm ăn thua lỗ nên anh Hoàng đang bị công ty A khởi kiện về hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế. Theo đơn khởi kiện, số tiền anh Hoàng phải trả cho công ty A rất lớn. Tuy nhiên, sau khi bố anh chết, anh Hoàng đã làm thủ tục để từ chối nhận di sản thừa kế của ông. Nhận thấy có hiện tượng tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ, công ty A khởi kiện, yêu cầu bác bỏ quyền từ chối quyền hưởng di sản thừa kế của anh Hoàng. Hỏi, yêu cầu của công ty A có căn cứ pháp lý hay không?
Trả lời:
Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản”
Anh Hoàng hoàn toàn có quyền từ chối nhận di sản từ cha mình. Tuy nhiên, việc từ chối hưởng di sản thừa kế phải đảm bảo các điều kiện theo quy định nêu trên, cụ thể:
Thứ nhất, việc từ chối không nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
Thứ hai, việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
Thứ ba, việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.
Như vậy, nếu công ty A chứng minh được việc anh Hoàng từ chối quyền hưởng di sản thừa kế đang nhằm trốn tránh nghĩa vụ với công ty mình thì công ty A có thể A khởi kiện, yêu cầu bác bỏ quyền từ chối quyền hưởng di sản thừa kế của anh Hoàng.
Tình huống 5.
Bà X có chồng là ông Y và 03 người con là A, B, C (đều đã thành niên có khả năng lao động). Đầu năm 2021, bà X chết do tai nạn giao thông. Sau khi mai táng, ông Y vẫn quản lý, sử dụng ngôi nhà và thửa đất với diện tích 500m2 là tài sản riêng của bà X. Cuối năm 2021, ông Y có đưa bà H về nhà để sinh sống như vợ, chồng . Vì không muốn bà H được sử dụng, sinh sống trên ngôi nhà và thửa đất nêu trên, những người con có thỏa thuận với ông Y để phân chia di sản do bà X để lại, nhưng ông Y không đồng ý. Ông cho rằng, bà X chết, không để lại di chúc, ông là chồng bà X nên phải được hưởng toàn bộ di sản thừa kế của bà X. Hỏi, quan điểm của ông Y về việc thừa kế di sản thừa kế của bà X có đúng hay không?
Trả lời:
Khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Với tình huống nêu trên, A, B, C và ông Y cùng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà X, do đó, A, B, C và Y sẽ được hưởng phần di sản do bà X để lại là bằng nhau. Quan điểm của ông Y về việc ông sẽ là người được hưởng toàn bộ di sản của bà X là không đúng quy định của pháp luật.
Tình huống 6.
Ông Hòa có vợ là bà Bình và có 2 người con là anh Thái và chị Lan (đều đã thành niên, có khả năng lao động). Anh Thái là con của ông Hòa và người vợ đầu tiên (đã chết), chị Lan là con của ông Hòa và bà Bình. Trước khi chết, ông Hòa lập di chúc, để lại toàn bộ tài sản của ông cho anh Thái, không để lại bất cứ tài sản nào cho bà Bình và chị Lan. Anh Thái đã nhận toàn bộ số tài sản thừa kế này. Bà Bình và chị Lan yêu cầu anh Thái phải đưa cho mỗi người số tiền tương ứng bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật của ông Hòa. Anh Thái cho rằng yêu cầu của bà Bình và chị Lan là không đúng. Với tình huống trên, yêu cầu của bà Bình và chị Lan có đúng quy định của pháp luật hay không?
Trả lời:
Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này”
Theo di chúc của ông Hòa, bà Bình và chị Lan không được ông Hòa cho hưởng di sản, tuy nhiên bà Bình là vợ của ông Hòa, do đó theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 bà Bình vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật. Chị Lan là con của ông Hòa, nhưng chị Lan đã thành niên và có khả năng lao động, do đó việc chị Lan yêu cầu được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật là không đúng quy định.
Tình huống 7
Bà Thân đã 80 tuổi, gần đây mắt bà bị mờ, trí nhớ kém minh mẫn. Bà Thân có hai người con là anh Thủy và chị Hằng. Đầu năm 2021, chị Hằng đón bà Thân về ở cùng và chăm sóc, bà Thân hay kể lại với chị Hằng về thời gian ở cùng với vợ chồng anh Thủy là anh Thủy không nuôi dưỡng bà, thậm trí bà thường xuyên bị vợ chồng anh Thủy chửi bới, bắt nhịn đói. Bà Thân mới qua đời vào tháng 02 năm 2022, không để lại di chúc, anh Thủy yêu cầu phân chia di sản, đòi hưởng một phần hai di sản của bà Thân để lại, nhưng chị Hằng không đồng ý, chị cho rằng anh Thủy không nuôi dưỡng, chăm sóc bà Thân, thậm trí thường xuyên chửi bới, bắt bà nhịn đói, do đó anh Thủy không được quyền hưởng di sản của bà Thân.
Trả lời:
Khoản 2 Điều 71 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”
Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”.
Theo nội dung tình huống trên, nếu chị Hằng có chứng cứ chứng minh việc anh Thủy đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với mẹ anh, thì anh Thủy sẽ không được quyền hưởng di sản theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tình huống 8
Ông Mùi có một khoản tiền 500 triệu. Ông muốn lập bản di chúc để phân chia số tài sản trên cho các con sau khi ông chết. Ông có nhờ người đánh máy bản di chúc và nhờ ông Hạ và bà Đông là hàng xóm làm chứng cho việc lập di chúc. Ông Hạ và bà Đông có thể làm chứng cho việc lập di chúc của ông Mùi hay không?
Trả lời:
Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”
Theo quy định trên, ông Hạ và bà Đông là hàng xóm của ông Mùi, không thuộc các trường hợp: người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc hoặc người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì ông Hạ và bà Đông có thể làm chứng cho việc lập di chúc của ông Mùi.
Tình huống 9
Ông Hạ muốn lập bản di chúc để phân chia tài sản cho các con sau khi ông chết. Mắt ông nhìn kém, không thể viết được, nên ông có nhờ người đánh máy bản di chúc và nhờ ông Mùi là hàng xóm làm chứng cho việc lập di chúc. Việc ông Hạ chỉ nhờ có một người (ông Mùi) làm chứng cho việc lập di chúc có đúng quy định hay không?
Trả lời:
Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này”
Theo quy định trên, ông Hạ nhờ người đánh máy bản di chúc thì ông Hạ phải có ít nhất hai người làm chứng, việc ông Hạ chỉ nhờ 01 người làm chứng cho việc lập di chúc là không đúng quy định của pháp luật.
Tình huống 10
Bà Đào Thị Mai thấy sức khỏe của mình đang giảm sút, bà muốn lập di chúc để phân chia tài sản cho các con, tránh sau này khi bà chết giữa các con có sự tranh chấp tài sản, bà muốn biết thủ tục lập di chúc tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Điều 636 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng”.
Như vậy, thủ tục lập di chúc tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện như sau:
- Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
- Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
Tình huống 11
Bà Đỗ Thị Nhị bị nhiễm Covid-19, bà đang phải điều trị tại Bệnh viện nhiệt đới Trung ương tại Hà Nội, trong thời gian này bà đã lập một bản di chúc viết tay. Bà muốn biết di chúc của bà có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực hay không?
Trả lời:
Điều 638 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực như sau:
“1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực.
2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó.
3. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó.
4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị.
5. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó.
6. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó”
Theo tình huống trên, bà Đỗ Thị Nhị đang phải điều trị tại Bệnh viện nhiệt đới Trung ương tại Hà Nội, bà lập di chúc bằng văn bản (viết tay), do đó di chúc của bà sẽ có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực khi có xác nhận của người phụ trách bệnh viện.
Tình huống 12
Ông Đặng Văn Nghĩ có 3 người con là Đặng Thị Phúc, Đặng Thị Lộc, Đặng Văn Thọ, vợ ông Nghĩ đã mất từ lâu. Năm 2019, ông Nghĩ có lập 01 bản di chúc để lại toàn bộ tài sản cho 3 người con của ông. Cuối năm 2021, ông Nghĩ có quen biết với bà Nguyễn Thị Lan, ông đã đưa bà Lan về chung sống, chăm sóc ông lúc tuổi già. Thấy bà Lan chăm sóc ông rất chu đáo, ông muốn để lại một phần tài sản của mình cho bà Lan, do đó hiện nay ông Nghĩ muốn sửa lại bản di chúc đã lập vào năm 2019 có được hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 640 Bộ luật Dân sự năm 2015:“1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. 2. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. 3. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ” thì hiện nay ông Nghĩ có thể sửa đổi bản di chúc đã lập vào năm 2019.
Trước khi chết, cha của anh Đồng đã lập di chúc với nội dung phân chia tài sản như sau: 300 triệu tiền mặt chia đều cho anh Đồng, chị Tiến, chị Đại (chị gái của anh Đồng) mỗi người 100 triệu; ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 nơi cha anh Đồng sinh sống trước lúc chết được dùng vào việc thờ cúng, giao cho anh Đồng quản lý, trông coi và thờ cúng ông bà tổ tiên. Tuy nhiên, hiện nay do công việc làm ăn buôn bán không thuận lợi, anh Đồng bàn bạc với chị Tiến và chị Đại chia một phần thửa đất 200 m2 nêu trên cho anh để anh bán đi trả nợ nần. Chị Tiến và chị Đại không đồng ý với ý kiến của anh Đồng. Hỏi việc anh Đồng yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản dùng vào việc thờ cúng nêu trên có được hay không?
Trả lời:
Trong di chúc của cha anh Đồng thể hiện ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 là phần di sản được dùng vào việc thờ cúng, theo quy định tại khoản 1 Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng…” thì ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 nêu trên không được chia thừa kế. Việc anh Đồng yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất 200 m2 là không đúng quy định.
Trong di chúc, cha anh Đồng đã giao cho anh quản lý ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 để thực hiện việc thờ cúng ông bà tổ tiên. Trường hợp anh Đồng không thực hiện đúng di chúc thì chị Tiến và chị Đại có quyền giao ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 cho người khác quản lý để thờ cúng
Ông Hà Văn Trọng có 5 người con là bà Hà Thị Nương, bà Hà Thị Vương, bà Hà Thị Hường, ông Hà Văn Cảnh, ông Hà Văn Khánh. Bà Nương có 2 người con trai là anh Nguyễn Văn Hải và anh Nguyễn Văn Nam. Năm 2018 bà Hà Thị Nương chết. Năm 2021, ông Trọng chết, không để lại di chúc. Khi họp gia đình, ông Cảnh cho rằng chỉ có 04 người con còn sống của ông Trọng là bà Hà Thị Vương, bà Hà Thị Hường, ông Hà Văn Cảnh, ông Hà Văn Khánh mới được hưởng thừa kế phần di sản của ông Trọng để lại. Anh Nam không đồng ý với ý kiến của ông Cảnh, vì cho rằng mẹ của anh và anh Hải là bà Nương đã chết trước ông Trọng, do vậy anh Nam và anh Hải cũng có quyền được hưởng thừa kế di sản của ông Trọng. Quan điểm của ông Cảnh hay của Anh Nam mới là đúng?
Trả lời:
Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Trong tình huống nêu trên, bà Nương là con của ông Trọng, chết trước ông Trọng do đó anh Hải và anh Nam (con của bà Nương) sẽ được hưởng phần di sản mà bà Nương được hưởng nếu còn sống. Quan điểm của anh Nam là phù hợp với quy định của pháp luật.
Tình huống 15
Bà Nguyễn Thị Hà muốn lập di chúc để chia tài sản cho các con, tuy nhiên chân bà bị đau, đi lại rất khó khăn, bà Hà muốn biết bà có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc được hay không? Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Điều 639 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:
“1. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc.
2. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng theo quy định tại Điều 636 của Bộ luật này”
Điều 636 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:
“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng”
Theo các quy định nêu trên, bà Hà có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được thực hiện như sau:
- Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên. Công chứng viên phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên ký vào bản di chúc.
- Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên. Công chứng viên chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng./.
Tình huống 1
Anh Nam hỏi: vào ngày 12/01/2021, bố anh Nam đã lập 01 bản di chúc (viết tay trên giấy A4), để lại toàn bộ tài sản của ông cho anh. Tuy nhiên bản di chúc này không được công chứng và chứng thực. Đầu năm 2022, bố anh Nam mất, anh trai và chị gái của anh Nam tranh chấp tài sản, yêu cầu chia lại tài sản do bố anh Nam để lại vì họ cho rằng bản di chúc do bố anh Nam lập ngày 12/01/2021 không được công chứng và chứng thực nên không hợp pháp. Anh Nam hỏi di chúc của bố anh lập nêu trên, không được công chứng và chứng thực thì có hợp pháp hay không?
Trả lời:
Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”
Theo quy định trên, di chúc của bố anh Nam được lập bằng văn bản (viết tay trên giấy A4), không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật (Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hình thức của di chúc như sau: “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”).
Tình huống 2
Ngày 20/10/2021, khi đang tham gia giao thông trên đường, anh Hà có va chạm với một xe container bị thương rất nặng. Trên đường đưa anh đi cấp cứu trên xe cứu thương, anh có trăn trối lại trước 01 bác sĩ và 01 điều dưỡng viên rằng “anh có di nguyện để toàn bộ số tiền tiết kiệm anh có trong ngân hàng X cho vợ anh là bà Lan, anh để lại ngôi nhà 03 tầng tại Phường X, quận Y, tỉnh N cho chị Mỹ (người yêu cũ của anh Hà). Hỏi, di nguyện của anh Hà muốn hợp pháp phải thỏa mãn điều kiện nào?
Điều 629 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc miệng như sau:
“ 1. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
2. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ”
Khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”
Như vậy, di nguyện của anh Hà trong tình huống trên hoàn toàn có thể đưa vào di chúc và đảm bảo thực hiện ở dạng di chúc miệng, nếu thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, người di chúc miệng (anh Hà) thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng. Hai người làm chứng phải thỏa mãn điều kiện quy định tại Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc. 2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc. 3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”
Thứ hai, ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ.
Thứ ba, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Như vậy, nếu di chúc của anh Hà thỏa mãn các quy định trên sẽ hợp pháp và phát sinh hiệu lực sau khi anh chết.
Tình huống 3:
Năm 1970, Ông L kết hôn với bà N có 03 người con là A, B và T. Năm 2019, ông L qua đời không để lại di chúc. Năm 2022, 03 người con cùng bà N có họp để thỏa thuận phân chia di sản. Thời điểm đó, di sản của ông xác định được là quyền sở hữu 02 căn nhà và 300 triệu đồng tiền mặt. Khi họp bàn những người thừa kế, bà N, anh B và anh T đều thống nhất quan điểm phân chia di sản theo hướng “02 căn nhà chia cho hai người con trai là anh B và anh T, 300 triệu chia cho 04 người: bà N, anh B, anh T và chị A. Chị A không chấp nhận phương án như vậy vì cho rằng, đã là con thì phải được hưởng như nhau và yêu cầu hai người anh của mình phải thanh toán cho mình phần giá trị tài sản quy đổi thành tiền mà mình được hưởng từ 02 căn nhà. Quan điểm của chị A là đúng hay sai?
Trả lời:
Quan điểm của A trong tình huống trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.
Điều 610 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Chị A, anh B, anh T và bà N cùng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông L, do đó Chị A, anh B, anh T và bà N sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau, yêu cầu của chị A xác định lại phần giá trị tài sản mà mình được hưởng từ 02 căn nhà là phù hợp.
Tình huống 4:
Anh Hoàng là con trai duy nhất của ông Tân. Ngày 01/01/2022, ông Tân chết có để lại di chúc cho anh Hoàng được hưởng toàn bộ di sản thừa kế. Tuy nhiên, trước thời điểm này, do làm ăn thua lỗ nên anh Hoàng đang bị công ty A khởi kiện về hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế. Theo đơn khởi kiện, số tiền anh Hoàng phải trả cho công ty A rất lớn. Tuy nhiên, sau khi bố anh chết, anh Hoàng đã làm thủ tục để từ chối nhận di sản thừa kế của ông. Nhận thấy có hiện tượng tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ, công ty A khởi kiện, yêu cầu bác bỏ quyền từ chối quyền hưởng di sản thừa kế của anh Hoàng. Hỏi, yêu cầu của công ty A có căn cứ pháp lý hay không?
Trả lời:
Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản”
Anh Hoàng hoàn toàn có quyền từ chối nhận di sản từ cha mình. Tuy nhiên, việc từ chối hưởng di sản thừa kế phải đảm bảo các điều kiện theo quy định nêu trên, cụ thể:
Thứ nhất, việc từ chối không nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
Thứ hai, việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
Thứ ba, việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.
Như vậy, nếu công ty A chứng minh được việc anh Hoàng từ chối quyền hưởng di sản thừa kế đang nhằm trốn tránh nghĩa vụ với công ty mình thì công ty A có thể A khởi kiện, yêu cầu bác bỏ quyền từ chối quyền hưởng di sản thừa kế của anh Hoàng.
Tình huống 5.
Bà X có chồng là ông Y và 03 người con là A, B, C (đều đã thành niên có khả năng lao động). Đầu năm 2021, bà X chết do tai nạn giao thông. Sau khi mai táng, ông Y vẫn quản lý, sử dụng ngôi nhà và thửa đất với diện tích 500m2 là tài sản riêng của bà X. Cuối năm 2021, ông Y có đưa bà H về nhà để sinh sống như vợ, chồng . Vì không muốn bà H được sử dụng, sinh sống trên ngôi nhà và thửa đất nêu trên, những người con có thỏa thuận với ông Y để phân chia di sản do bà X để lại, nhưng ông Y không đồng ý. Ông cho rằng, bà X chết, không để lại di chúc, ông là chồng bà X nên phải được hưởng toàn bộ di sản thừa kế của bà X. Hỏi, quan điểm của ông Y về việc thừa kế di sản thừa kế của bà X có đúng hay không?
Trả lời:
Khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Với tình huống nêu trên, A, B, C và ông Y cùng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà X, do đó, A, B, C và Y sẽ được hưởng phần di sản do bà X để lại là bằng nhau. Quan điểm của ông Y về việc ông sẽ là người được hưởng toàn bộ di sản của bà X là không đúng quy định của pháp luật.
Tình huống 6.
Ông Hòa có vợ là bà Bình và có 2 người con là anh Thái và chị Lan (đều đã thành niên, có khả năng lao động). Anh Thái là con của ông Hòa và người vợ đầu tiên (đã chết), chị Lan là con của ông Hòa và bà Bình. Trước khi chết, ông Hòa lập di chúc, để lại toàn bộ tài sản của ông cho anh Thái, không để lại bất cứ tài sản nào cho bà Bình và chị Lan. Anh Thái đã nhận toàn bộ số tài sản thừa kế này. Bà Bình và chị Lan yêu cầu anh Thái phải đưa cho mỗi người số tiền tương ứng bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật của ông Hòa. Anh Thái cho rằng yêu cầu của bà Bình và chị Lan là không đúng. Với tình huống trên, yêu cầu của bà Bình và chị Lan có đúng quy định của pháp luật hay không?
Trả lời:
Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này”
Theo di chúc của ông Hòa, bà Bình và chị Lan không được ông Hòa cho hưởng di sản, tuy nhiên bà Bình là vợ của ông Hòa, do đó theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 bà Bình vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật. Chị Lan là con của ông Hòa, nhưng chị Lan đã thành niên và có khả năng lao động, do đó việc chị Lan yêu cầu được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật là không đúng quy định.
Tình huống 7
Bà Thân đã 80 tuổi, gần đây mắt bà bị mờ, trí nhớ kém minh mẫn. Bà Thân có hai người con là anh Thủy và chị Hằng. Đầu năm 2021, chị Hằng đón bà Thân về ở cùng và chăm sóc, bà Thân hay kể lại với chị Hằng về thời gian ở cùng với vợ chồng anh Thủy là anh Thủy không nuôi dưỡng bà, thậm trí bà thường xuyên bị vợ chồng anh Thủy chửi bới, bắt nhịn đói. Bà Thân mới qua đời vào tháng 02 năm 2022, không để lại di chúc, anh Thủy yêu cầu phân chia di sản, đòi hưởng một phần hai di sản của bà Thân để lại, nhưng chị Hằng không đồng ý, chị cho rằng anh Thủy không nuôi dưỡng, chăm sóc bà Thân, thậm trí thường xuyên chửi bới, bắt bà nhịn đói, do đó anh Thủy không được quyền hưởng di sản của bà Thân.
Trả lời:
Khoản 2 Điều 71 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”
Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”.
Theo nội dung tình huống trên, nếu chị Hằng có chứng cứ chứng minh việc anh Thủy đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với mẹ anh, thì anh Thủy sẽ không được quyền hưởng di sản theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tình huống 8
Ông Mùi có một khoản tiền 500 triệu. Ông muốn lập bản di chúc để phân chia số tài sản trên cho các con sau khi ông chết. Ông có nhờ người đánh máy bản di chúc và nhờ ông Hạ và bà Đông là hàng xóm làm chứng cho việc lập di chúc. Ông Hạ và bà Đông có thể làm chứng cho việc lập di chúc của ông Mùi hay không?
Trả lời:
Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”
Theo quy định trên, ông Hạ và bà Đông là hàng xóm của ông Mùi, không thuộc các trường hợp: người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc hoặc người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì ông Hạ và bà Đông có thể làm chứng cho việc lập di chúc của ông Mùi.
Tình huống 9
Ông Hạ muốn lập bản di chúc để phân chia tài sản cho các con sau khi ông chết. Mắt ông nhìn kém, không thể viết được, nên ông có nhờ người đánh máy bản di chúc và nhờ ông Mùi là hàng xóm làm chứng cho việc lập di chúc. Việc ông Hạ chỉ nhờ có một người (ông Mùi) làm chứng cho việc lập di chúc có đúng quy định hay không?
Trả lời:
Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này”
Theo quy định trên, ông Hạ nhờ người đánh máy bản di chúc thì ông Hạ phải có ít nhất hai người làm chứng, việc ông Hạ chỉ nhờ 01 người làm chứng cho việc lập di chúc là không đúng quy định của pháp luật.
Tình huống 10
Bà Đào Thị Mai thấy sức khỏe của mình đang giảm sút, bà muốn lập di chúc để phân chia tài sản cho các con, tránh sau này khi bà chết giữa các con có sự tranh chấp tài sản, bà muốn biết thủ tục lập di chúc tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Điều 636 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng”.
Như vậy, thủ tục lập di chúc tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện như sau:
- Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
- Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
Tình huống 11
Bà Đỗ Thị Nhị bị nhiễm Covid-19, bà đang phải điều trị tại Bệnh viện nhiệt đới Trung ương tại Hà Nội, trong thời gian này bà đã lập một bản di chúc viết tay. Bà muốn biết di chúc của bà có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực hay không?
Trả lời:
Điều 638 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực như sau:
“1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực.
2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó.
3. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó.
4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị.
5. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó.
6. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó”
Theo tình huống trên, bà Đỗ Thị Nhị đang phải điều trị tại Bệnh viện nhiệt đới Trung ương tại Hà Nội, bà lập di chúc bằng văn bản (viết tay), do đó di chúc của bà sẽ có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực khi có xác nhận của người phụ trách bệnh viện.
Tình huống 12
Ông Đặng Văn Nghĩ có 3 người con là Đặng Thị Phúc, Đặng Thị Lộc, Đặng Văn Thọ, vợ ông Nghĩ đã mất từ lâu. Năm 2019, ông Nghĩ có lập 01 bản di chúc để lại toàn bộ tài sản cho 3 người con của ông. Cuối năm 2021, ông Nghĩ có quen biết với bà Nguyễn Thị Lan, ông đã đưa bà Lan về chung sống, chăm sóc ông lúc tuổi già. Thấy bà Lan chăm sóc ông rất chu đáo, ông muốn để lại một phần tài sản của mình cho bà Lan, do đó hiện nay ông Nghĩ muốn sửa lại bản di chúc đã lập vào năm 2019 có được hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 640 Bộ luật Dân sự năm 2015:“1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. 2. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. 3. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ” thì hiện nay ông Nghĩ có thể sửa đổi bản di chúc đã lập vào năm 2019.
Trước khi chết, cha của anh Đồng đã lập di chúc với nội dung phân chia tài sản như sau: 300 triệu tiền mặt chia đều cho anh Đồng, chị Tiến, chị Đại (chị gái của anh Đồng) mỗi người 100 triệu; ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 nơi cha anh Đồng sinh sống trước lúc chết được dùng vào việc thờ cúng, giao cho anh Đồng quản lý, trông coi và thờ cúng ông bà tổ tiên. Tuy nhiên, hiện nay do công việc làm ăn buôn bán không thuận lợi, anh Đồng bàn bạc với chị Tiến và chị Đại chia một phần thửa đất 200 m2 nêu trên cho anh để anh bán đi trả nợ nần. Chị Tiến và chị Đại không đồng ý với ý kiến của anh Đồng. Hỏi việc anh Đồng yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản dùng vào việc thờ cúng nêu trên có được hay không?
Trả lời:
Trong di chúc của cha anh Đồng thể hiện ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 là phần di sản được dùng vào việc thờ cúng, theo quy định tại khoản 1 Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng…” thì ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 nêu trên không được chia thừa kế. Việc anh Đồng yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất 200 m2 là không đúng quy định.
Trong di chúc, cha anh Đồng đã giao cho anh quản lý ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 để thực hiện việc thờ cúng ông bà tổ tiên. Trường hợp anh Đồng không thực hiện đúng di chúc thì chị Tiến và chị Đại có quyền giao ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 cho người khác quản lý để thờ cúng
Ông Hà Văn Trọng có 5 người con là bà Hà Thị Nương, bà Hà Thị Vương, bà Hà Thị Hường, ông Hà Văn Cảnh, ông Hà Văn Khánh. Bà Nương có 2 người con trai là anh Nguyễn Văn Hải và anh Nguyễn Văn Nam. Năm 2018 bà Hà Thị Nương chết. Năm 2021, ông Trọng chết, không để lại di chúc. Khi họp gia đình, ông Cảnh cho rằng chỉ có 04 người con còn sống của ông Trọng là bà Hà Thị Vương, bà Hà Thị Hường, ông Hà Văn Cảnh, ông Hà Văn Khánh mới được hưởng thừa kế phần di sản của ông Trọng để lại. Anh Nam không đồng ý với ý kiến của ông Cảnh, vì cho rằng mẹ của anh và anh Hải là bà Nương đã chết trước ông Trọng, do vậy anh Nam và anh Hải cũng có quyền được hưởng thừa kế di sản của ông Trọng. Quan điểm của ông Cảnh hay của Anh Nam mới là đúng?
Trả lời:
Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Trong tình huống nêu trên, bà Nương là con của ông Trọng, chết trước ông Trọng do đó anh Hải và anh Nam (con của bà Nương) sẽ được hưởng phần di sản mà bà Nương được hưởng nếu còn sống. Quan điểm của anh Nam là phù hợp với quy định của pháp luật.
Tình huống 15
Bà Nguyễn Thị Hà muốn lập di chúc để chia tài sản cho các con, tuy nhiên chân bà bị đau, đi lại rất khó khăn, bà Hà muốn biết bà có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc được hay không? Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Điều 639 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:
“1. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc.
2. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng theo quy định tại Điều 636 của Bộ luật này”
Điều 636 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:
“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng”
Theo các quy định nêu trên, bà Hà có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được thực hiện như sau:
- Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên. Công chứng viên phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên ký vào bản di chúc.
- Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên. Công chứng viên chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng./.
Tình huống 1
Anh Nam hỏi: vào ngày 12/01/2021, bố anh Nam đã lập 01 bản di chúc (viết tay trên giấy A4), để lại toàn bộ tài sản của ông cho anh. Tuy nhiên bản di chúc này không được công chứng và chứng thực. Đầu năm 2022, bố anh Nam mất, anh trai và chị gái của anh Nam tranh chấp tài sản, yêu cầu chia lại tài sản do bố anh Nam để lại vì họ cho rằng bản di chúc do bố anh Nam lập ngày 12/01/2021 không được công chứng và chứng thực nên không hợp pháp. Anh Nam hỏi di chúc của bố anh lập nêu trên, không được công chứng và chứng thực thì có hợp pháp hay không?
Trả lời:
Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”
Theo quy định trên, di chúc của bố anh Nam được lập bằng văn bản (viết tay trên giấy A4), không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật (Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hình thức của di chúc như sau: “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”).
Tình huống 2
Ngày 20/10/2021, khi đang tham gia giao thông trên đường, anh Hà có va chạm với một xe container bị thương rất nặng. Trên đường đưa anh đi cấp cứu trên xe cứu thương, anh có trăn trối lại trước 01 bác sĩ và 01 điều dưỡng viên rằng “anh có di nguyện để toàn bộ số tiền tiết kiệm anh có trong ngân hàng X cho vợ anh là bà Lan, anh để lại ngôi nhà 03 tầng tại Phường X, quận Y, tỉnh N cho chị Mỹ (người yêu cũ của anh Hà). Hỏi, di nguyện của anh Hà muốn hợp pháp phải thỏa mãn điều kiện nào?
Điều 629 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc miệng như sau:
“ 1. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
2. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ”
Khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”
Như vậy, di nguyện của anh Hà trong tình huống trên hoàn toàn có thể đưa vào di chúc và đảm bảo thực hiện ở dạng di chúc miệng, nếu thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, người di chúc miệng (anh Hà) thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng. Hai người làm chứng phải thỏa mãn điều kiện quy định tại Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc. 2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc. 3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”
Thứ hai, ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ.
Thứ ba, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Như vậy, nếu di chúc của anh Hà thỏa mãn các quy định trên sẽ hợp pháp và phát sinh hiệu lực sau khi anh chết.
Tình huống 3:
Năm 1970, Ông L kết hôn với bà N có 03 người con là A, B và T. Năm 2019, ông L qua đời không để lại di chúc. Năm 2022, 03 người con cùng bà N có họp để thỏa thuận phân chia di sản. Thời điểm đó, di sản của ông xác định được là quyền sở hữu 02 căn nhà và 300 triệu đồng tiền mặt. Khi họp bàn những người thừa kế, bà N, anh B và anh T đều thống nhất quan điểm phân chia di sản theo hướng “02 căn nhà chia cho hai người con trai là anh B và anh T, 300 triệu chia cho 04 người: bà N, anh B, anh T và chị A. Chị A không chấp nhận phương án như vậy vì cho rằng, đã là con thì phải được hưởng như nhau và yêu cầu hai người anh của mình phải thanh toán cho mình phần giá trị tài sản quy đổi thành tiền mà mình được hưởng từ 02 căn nhà. Quan điểm của chị A là đúng hay sai?
Trả lời:
Quan điểm của A trong tình huống trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.
Điều 610 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Chị A, anh B, anh T và bà N cùng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông L, do đó Chị A, anh B, anh T và bà N sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau, yêu cầu của chị A xác định lại phần giá trị tài sản mà mình được hưởng từ 02 căn nhà là phù hợp.
Tình huống 4:
Anh Hoàng là con trai duy nhất của ông Tân. Ngày 01/01/2022, ông Tân chết có để lại di chúc cho anh Hoàng được hưởng toàn bộ di sản thừa kế. Tuy nhiên, trước thời điểm này, do làm ăn thua lỗ nên anh Hoàng đang bị công ty A khởi kiện về hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế. Theo đơn khởi kiện, số tiền anh Hoàng phải trả cho công ty A rất lớn. Tuy nhiên, sau khi bố anh chết, anh Hoàng đã làm thủ tục để từ chối nhận di sản thừa kế của ông. Nhận thấy có hiện tượng tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ, công ty A khởi kiện, yêu cầu bác bỏ quyền từ chối quyền hưởng di sản thừa kế của anh Hoàng. Hỏi, yêu cầu của công ty A có căn cứ pháp lý hay không?
Trả lời:
Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản”
Anh Hoàng hoàn toàn có quyền từ chối nhận di sản từ cha mình. Tuy nhiên, việc từ chối hưởng di sản thừa kế phải đảm bảo các điều kiện theo quy định nêu trên, cụ thể:
Thứ nhất, việc từ chối không nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
Thứ hai, việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
Thứ ba, việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.
Như vậy, nếu công ty A chứng minh được việc anh Hoàng từ chối quyền hưởng di sản thừa kế đang nhằm trốn tránh nghĩa vụ với công ty mình thì công ty A có thể A khởi kiện, yêu cầu bác bỏ quyền từ chối quyền hưởng di sản thừa kế của anh Hoàng.
Tình huống 5.
Bà X có chồng là ông Y và 03 người con là A, B, C (đều đã thành niên có khả năng lao động). Đầu năm 2021, bà X chết do tai nạn giao thông. Sau khi mai táng, ông Y vẫn quản lý, sử dụng ngôi nhà và thửa đất với diện tích 500m2 là tài sản riêng của bà X. Cuối năm 2021, ông Y có đưa bà H về nhà để sinh sống như vợ, chồng . Vì không muốn bà H được sử dụng, sinh sống trên ngôi nhà và thửa đất nêu trên, những người con có thỏa thuận với ông Y để phân chia di sản do bà X để lại, nhưng ông Y không đồng ý. Ông cho rằng, bà X chết, không để lại di chúc, ông là chồng bà X nên phải được hưởng toàn bộ di sản thừa kế của bà X. Hỏi, quan điểm của ông Y về việc thừa kế di sản thừa kế của bà X có đúng hay không?
Trả lời:
Khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Với tình huống nêu trên, A, B, C và ông Y cùng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà X, do đó, A, B, C và Y sẽ được hưởng phần di sản do bà X để lại là bằng nhau. Quan điểm của ông Y về việc ông sẽ là người được hưởng toàn bộ di sản của bà X là không đúng quy định của pháp luật.
Tình huống 6.
Ông Hòa có vợ là bà Bình và có 2 người con là anh Thái và chị Lan (đều đã thành niên, có khả năng lao động). Anh Thái là con của ông Hòa và người vợ đầu tiên (đã chết), chị Lan là con của ông Hòa và bà Bình. Trước khi chết, ông Hòa lập di chúc, để lại toàn bộ tài sản của ông cho anh Thái, không để lại bất cứ tài sản nào cho bà Bình và chị Lan. Anh Thái đã nhận toàn bộ số tài sản thừa kế này. Bà Bình và chị Lan yêu cầu anh Thái phải đưa cho mỗi người số tiền tương ứng bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật của ông Hòa. Anh Thái cho rằng yêu cầu của bà Bình và chị Lan là không đúng. Với tình huống trên, yêu cầu của bà Bình và chị Lan có đúng quy định của pháp luật hay không?
Trả lời:
Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này”
Theo di chúc của ông Hòa, bà Bình và chị Lan không được ông Hòa cho hưởng di sản, tuy nhiên bà Bình là vợ của ông Hòa, do đó theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 bà Bình vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật. Chị Lan là con của ông Hòa, nhưng chị Lan đã thành niên và có khả năng lao động, do đó việc chị Lan yêu cầu được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật là không đúng quy định.
Tình huống 7
Bà Thân đã 80 tuổi, gần đây mắt bà bị mờ, trí nhớ kém minh mẫn. Bà Thân có hai người con là anh Thủy và chị Hằng. Đầu năm 2021, chị Hằng đón bà Thân về ở cùng và chăm sóc, bà Thân hay kể lại với chị Hằng về thời gian ở cùng với vợ chồng anh Thủy là anh Thủy không nuôi dưỡng bà, thậm trí bà thường xuyên bị vợ chồng anh Thủy chửi bới, bắt nhịn đói. Bà Thân mới qua đời vào tháng 02 năm 2022, không để lại di chúc, anh Thủy yêu cầu phân chia di sản, đòi hưởng một phần hai di sản của bà Thân để lại, nhưng chị Hằng không đồng ý, chị cho rằng anh Thủy không nuôi dưỡng, chăm sóc bà Thân, thậm trí thường xuyên chửi bới, bắt bà nhịn đói, do đó anh Thủy không được quyền hưởng di sản của bà Thân.
Trả lời:
Khoản 2 Điều 71 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”
Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”.
Theo nội dung tình huống trên, nếu chị Hằng có chứng cứ chứng minh việc anh Thủy đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với mẹ anh, thì anh Thủy sẽ không được quyền hưởng di sản theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tình huống 8
Ông Mùi có một khoản tiền 500 triệu. Ông muốn lập bản di chúc để phân chia số tài sản trên cho các con sau khi ông chết. Ông có nhờ người đánh máy bản di chúc và nhờ ông Hạ và bà Đông là hàng xóm làm chứng cho việc lập di chúc. Ông Hạ và bà Đông có thể làm chứng cho việc lập di chúc của ông Mùi hay không?
Trả lời:
Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”
Theo quy định trên, ông Hạ và bà Đông là hàng xóm của ông Mùi, không thuộc các trường hợp: người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc hoặc người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì ông Hạ và bà Đông có thể làm chứng cho việc lập di chúc của ông Mùi.
Tình huống 9
Ông Hạ muốn lập bản di chúc để phân chia tài sản cho các con sau khi ông chết. Mắt ông nhìn kém, không thể viết được, nên ông có nhờ người đánh máy bản di chúc và nhờ ông Mùi là hàng xóm làm chứng cho việc lập di chúc. Việc ông Hạ chỉ nhờ có một người (ông Mùi) làm chứng cho việc lập di chúc có đúng quy định hay không?
Trả lời:
Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này”
Theo quy định trên, ông Hạ nhờ người đánh máy bản di chúc thì ông Hạ phải có ít nhất hai người làm chứng, việc ông Hạ chỉ nhờ 01 người làm chứng cho việc lập di chúc là không đúng quy định của pháp luật.
Tình huống 10
Bà Đào Thị Mai thấy sức khỏe của mình đang giảm sút, bà muốn lập di chúc để phân chia tài sản cho các con, tránh sau này khi bà chết giữa các con có sự tranh chấp tài sản, bà muốn biết thủ tục lập di chúc tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Điều 636 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng”.
Như vậy, thủ tục lập di chúc tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện như sau:
- Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
- Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
Tình huống 11
Bà Đỗ Thị Nhị bị nhiễm Covid-19, bà đang phải điều trị tại Bệnh viện nhiệt đới Trung ương tại Hà Nội, trong thời gian này bà đã lập một bản di chúc viết tay. Bà muốn biết di chúc của bà có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực hay không?
Trả lời:
Điều 638 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực như sau:
“1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực.
2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó.
3. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó.
4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị.
5. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó.
6. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó”
Theo tình huống trên, bà Đỗ Thị Nhị đang phải điều trị tại Bệnh viện nhiệt đới Trung ương tại Hà Nội, bà lập di chúc bằng văn bản (viết tay), do đó di chúc của bà sẽ có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực khi có xác nhận của người phụ trách bệnh viện.
Tình huống 12
Ông Đặng Văn Nghĩ có 3 người con là Đặng Thị Phúc, Đặng Thị Lộc, Đặng Văn Thọ, vợ ông Nghĩ đã mất từ lâu. Năm 2019, ông Nghĩ có lập 01 bản di chúc để lại toàn bộ tài sản cho 3 người con của ông. Cuối năm 2021, ông Nghĩ có quen biết với bà Nguyễn Thị Lan, ông đã đưa bà Lan về chung sống, chăm sóc ông lúc tuổi già. Thấy bà Lan chăm sóc ông rất chu đáo, ông muốn để lại một phần tài sản của mình cho bà Lan, do đó hiện nay ông Nghĩ muốn sửa lại bản di chúc đã lập vào năm 2019 có được hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 640 Bộ luật Dân sự năm 2015:“1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. 2. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. 3. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ” thì hiện nay ông Nghĩ có thể sửa đổi bản di chúc đã lập vào năm 2019.
Trước khi chết, cha của anh Đồng đã lập di chúc với nội dung phân chia tài sản như sau: 300 triệu tiền mặt chia đều cho anh Đồng, chị Tiến, chị Đại (chị gái của anh Đồng) mỗi người 100 triệu; ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 nơi cha anh Đồng sinh sống trước lúc chết được dùng vào việc thờ cúng, giao cho anh Đồng quản lý, trông coi và thờ cúng ông bà tổ tiên. Tuy nhiên, hiện nay do công việc làm ăn buôn bán không thuận lợi, anh Đồng bàn bạc với chị Tiến và chị Đại chia một phần thửa đất 200 m2 nêu trên cho anh để anh bán đi trả nợ nần. Chị Tiến và chị Đại không đồng ý với ý kiến của anh Đồng. Hỏi việc anh Đồng yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản dùng vào việc thờ cúng nêu trên có được hay không?
Trả lời:
Trong di chúc của cha anh Đồng thể hiện ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 là phần di sản được dùng vào việc thờ cúng, theo quy định tại khoản 1 Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng…” thì ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 nêu trên không được chia thừa kế. Việc anh Đồng yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất 200 m2 là không đúng quy định.
Trong di chúc, cha anh Đồng đã giao cho anh quản lý ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 để thực hiện việc thờ cúng ông bà tổ tiên. Trường hợp anh Đồng không thực hiện đúng di chúc thì chị Tiến và chị Đại có quyền giao ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 cho người khác quản lý để thờ cúng
Ông Hà Văn Trọng có 5 người con là bà Hà Thị Nương, bà Hà Thị Vương, bà Hà Thị Hường, ông Hà Văn Cảnh, ông Hà Văn Khánh. Bà Nương có 2 người con trai là anh Nguyễn Văn Hải và anh Nguyễn Văn Nam. Năm 2018 bà Hà Thị Nương chết. Năm 2021, ông Trọng chết, không để lại di chúc. Khi họp gia đình, ông Cảnh cho rằng chỉ có 04 người con còn sống của ông Trọng là bà Hà Thị Vương, bà Hà Thị Hường, ông Hà Văn Cảnh, ông Hà Văn Khánh mới được hưởng thừa kế phần di sản của ông Trọng để lại. Anh Nam không đồng ý với ý kiến của ông Cảnh, vì cho rằng mẹ của anh và anh Hải là bà Nương đã chết trước ông Trọng, do vậy anh Nam và anh Hải cũng có quyền được hưởng thừa kế di sản của ông Trọng. Quan điểm của ông Cảnh hay của Anh Nam mới là đúng?
Trả lời:
Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Trong tình huống nêu trên, bà Nương là con của ông Trọng, chết trước ông Trọng do đó anh Hải và anh Nam (con của bà Nương) sẽ được hưởng phần di sản mà bà Nương được hưởng nếu còn sống. Quan điểm của anh Nam là phù hợp với quy định của pháp luật.
Tình huống 15
Bà Nguyễn Thị Hà muốn lập di chúc để chia tài sản cho các con, tuy nhiên chân bà bị đau, đi lại rất khó khăn, bà Hà muốn biết bà có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc được hay không? Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Điều 639 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:
“1. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc.
2. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng theo quy định tại Điều 636 của Bộ luật này”
Điều 636 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:
“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng”
Theo các quy định nêu trên, bà Hà có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được thực hiện như sau:
- Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên. Công chứng viên phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên ký vào bản di chúc.
- Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên. Công chứng viên chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng./.
Ý kiến bạn đọc