Mua bán người bị xử lý như thế nào?
Tháng 1 năm 2017, con gái tôi (khi đó 15 tuổi 8 tháng) bị bà cô họ đưa sang Trung Quốc bán cho người đàn ông Trung Quốc lấy 25 triệu đồng. Sau đó người đàn ông này bán lại con gái tôi cho một người đàn ông khác làm vợ ở một vùng dân tộc hẻo lánh thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Được sự giúp đỡ của một người Việt Nam đang buôn bán ở bên đấy, tôi đã trốn về Việt Nam. Nay tôi muốn tố cáo bà cô họ này thì cần đến đâu? Đề nghị cho biết bà cô họ này sẽ bị xử lý về tội gì? Con tôi có được hưởng chế độ chính sách gì không?
Trả lời:
Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau:
“1. Mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận không được từ chối tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
2. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm:
a) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
b) Cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.”
Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Phòng, chống mua bán người, thì “1. Cá nhân có nghĩa vụ tố giác, tố cáo hành vi quy định tại Điều 3 của Luật này với cơ quan Công an, UBND xã, phường, thị trấn hoặc với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào.”
Như vậy, con gái ông/bà hoặc ông/bà có thể đến cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, UBND xã, phường, thị trấn hoặc với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào để tố giác hành vi phạm tội của bà cô họ.
Về hành vi phạm tội của bà cô họ, theo quy định tại Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội mua bán người dưới 16 tuổi như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
b) Lợi dụng hoạt động cho, nhận con nuôi để phạm tội;
c) Đối với từ 02 người đến 05 người;
d) Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;
đ) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
e) Phạm tội 02 lần trở lên;
g) Vì động cơ đê hèn;
h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 3 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
e) Đối với 06 người trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Như vậy, đối chiếu với quy định trên thì hành vi của bà cô họ đưa con gái ông/bà khi đó mới 15 tuổi 8 tháng sang Trung Quốc bán cho người đàn ông Trung Quốc lấy 25 triệu đồng đã cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi quy định tại điểm đ khoản 2 của Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), với mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Ngoài ra, bà cô họ này còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Về chế độ hỗ trợ đối với nạn nhân bị mua bán, được quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật phòng, chống mua bán người, cụ thể như sau:
“1. Nạn nhân là công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam, thì tùy trường hợp quy định tại các điều 33, 34, 35, 36, 37 và 38 của Luật này được hưởng các chế độ hỗ trợ sau đây:
a) Hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu và chi phí đi lại;
b) Hỗ trợ y tế;
c) Hỗ trợ tâm lý;
d) Trợ giúp pháp lý;
đ) Hỗ trợ học văn hóa, học nghề;
e) Trợ cấp khó khăn ban đầu, hỗ trợ vay vốn.”