Thứ bảy, 21/12/2024, 10:06

Tẩn Chỉn T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tủy”.

Thứ ba - 26/09/2023 21:54 1.785 0
Cách ngày bị bắt khoảng 3 - 4 ngày, Tẩn Chỉn T đang ở nhà thì có người đàn ông giới thiệu tên Q, nhà ở xã B, hu ện M, tỉnh Lai Châu (bị cáo không rõ nhân thân, lý lịch) đến chơi. Qua nói chuyện, Q đặt vấn đề mua Heroine với T, nếu mua được thì Q sẽ lấy nhiều. T đồng ý nhưng lúc này chưa có Heroine nên cả hai trao đổi số điện thoại để liên lạc và hẹ n khi nào có ma túy sẽ thông báo cho Q biết. Khoảng 06 giờ ngày 24/4/2023, T gọi điện thoại cho người đàn ông tên C (là người quen với T từ trước) nhà ở bản P, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu hỏi mua 2 1.000.000 đồng tiền Heroine, Cấu đồng ý và hẹn Tá đến khu vực lán nương thảo quả nhà Cấu ở xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn ở để trao đổi, mu a bán. Khoảng 1 7 giờ, cùng ngày T gặp C tại điểm hẹn rồi C đưa cho T một gói Heroine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng, T mở ra kiểm tra thấy bên trong có 03 gói từng gói đều được gói ngoài bằng nilon màu xanh, bên trong là Heroine. C dùng cân tiểu ly (của C mang theo từ trước) cân số Heroine trên được 1 ,2 lạng tiểu ly, T lấy 2 1.000.000 đồng đem theo đưa cho C. Sau khi mua được Heroine T mang về cất giấu trong balo và treo trên cột nhà, không cho ai biết.
Đến khoảng 1 9 giờ ngày 25/4/2023, T nhận được điện thoại của Q, qua trao đổi T đồng ý bán số Heroine trên cho Q với giá 25.000.000 đồng và hẹn gặp nhau tại khu vực suối Nậm Lô thuộc bản N, xã H, hu ện N để trao đổi, mua bán Heroine. Sau đó, T lấy chiếc balo có chứa Heroine và mượn xe mô tô biển kiểm soát 25B1 - 558.80 của Tẩn Sử M, sinh năm 1 989, trú cùng bản N, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu, (T không nói cho M biết việc mình dùng xe trên đi bán ma tú ) một mình điều khiển xe đến khu vực suối Nậm Lô để gặp Q. Tại đây, T lấy gói Heroine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng, bên trong có 03 gói từng gói đều được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh chứa chất bột màu trắng cho Quân kiểm tra, T và Q đều lấy mỗi người một ít Heroine ra để sử dụng (chích). Sau khi sử dụng xong Tá để số Heroine dưới đất cạnh chỗ T đang đứng thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng H phát hiện, bắt quả tang vào hồi 2 1 giờ, ngày 25/4/2023. Quân lợi dụng sơ hở nên đã chạy thoát, còn T bị bắt giữ cùng toàn bộ vật chứng.
Tại bản Kết luận giám định số 0 1 A ngày 26/4/2023 của Người giám định viên tư pháp theo vụ việc thuộc Công an huyện N, tỉnh Lai Châu kết luận: Tổng số chất bột, màu trắng thu giữ của Tẩn Chỉn T có khối lượng 45,37 gam.
Tại bản Kết luận giám định số: 507/KL-KTHS, ngày 27/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 03 mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu M , M2, M3) gửi giám định là ma tú , loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật Hình sự 20 1 5 (sửa đổi, bổ sung năm 20 1 7) và Nghị định số: 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.
Bản cáo trạng số: 56/CT-VKSLC-P1, ngày 08/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân tỉnh Lai châu để xét xử đối với bị cáo Tẩn Chỉn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 25 1 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tẩn Chỉn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 25 1 ; điểm s khoản 1 , khoản 2 Điều 5 1 ; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 1 06 Bộ luật tố tụng hình sự. 'Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/20 1 6 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Xử phạt bị cáo Tẩn Chỉn T từ 15 năm đến 16 năm tù. Xử lý vật chứng, đề nghị tuyên tịch thu, tiêu hủy 44,73 gam Heroine còn lại sau giám định; 0 1 mảnh nilon màu hồng; 03 mảnh nilon màu xanh và vỏ bì niêm phong ban đầu. Tuyên trả lại 0 1 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave RSX FI màu sơn trắng đen gắn BKS 25B 1 -558.80, xe cũ đã qua sử dụng cho bà Tẩn Sử M. Về hình phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét miễn cho bị cáo.
Người bào chữa trình bày luận cứ bào chữa, cho rằng nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo một phần do hoàn cảnh gia đình khó khăn, không được đi học nên nhận thức có phần còn hạn chế. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về việc làm của mình. Về công việc, thu nhập không ổn định, sinh sống ở vùng có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, giảm nhẹ ở mức thấp nhất của khung hình phạt. Về xử lý vật chứng, hình phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm đồng quan điểm với Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử, xem xét chấp nhận ý kiến đề nghị của người bào chữa.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không bổ sung gì và nhất trí với lời bào chữa của người bào chữa, không có ý kiến gì với quyết định truy tố và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.
Tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
  1. Về tố tụng:
[ 1.1 ] Về hành vi, quyết định tố tụng của Đồn biên phòng H, Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, tỉnh Lai Châu, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Lai Châu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, qu ết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, qu ết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
    1. Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy, trong hồ sơ vụ án đã thể hiện đầy đủ lời khai và ý kiến đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình giải quyết, nên việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 3 Điều 299 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thảo luận và quyết định tiếp tục xét xử vụ án.
  1. Về nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận về hành vi phạm tội, lời khai phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: Vì mục đích tư lợi, hồi 2 1 giờ 00 phút, ngày 25/4/2023, tại khu vực bản N, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu, bị cáo Tẩn Chỉn T đang thực hiện hành vi bán trái phép 45,37 gam Heroine thì bị tổ công tác Đồn biên phòng H, Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.
  2. Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước ta đối với các chất ma tú , làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, trị an, an toàn xã hội tại địa phương và đây còn là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc mua bán ma túy là nguy hiểm cho xã hội, là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lời nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 25 1 Bộ luật hình sự. Vì vậy, bản cáo trạng và quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu tại phiên tòa đối vớibị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
  3. Xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
[4. 1 ] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Tẩn Chỉn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
    1. Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên toà công khai ngày hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bản thân là người dân tộc thiểu số sinh sống ở nơi có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; do hoàn cảnh gia đình không được đi học, nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Hội đồng xét xử, xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 , khoản 2 Điều 5 1 Bộ luật hình sự.
  1. Ngoài ra tại phiên tòa bị cáo thừa nhận quá trình điều tra, truy tố, việc lấy lời khai, hỏi cung bị cáo tự nguyện khai, không bị bức cung, mớm cung, dùng nhục hình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có căn cứ khẳng định trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo tự ngu ện khai không bị ép cung, mớm cung, dùng nhục hình.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật và diễn biến tại phiên tòa, căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe, phòng ngừa tội phạm chung. Hội đồng xét xử, cần xem xét áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
  1. về xử lý vật chứng:
Số ma túy còn lại sau giám định gồm: 44,73 gam Heroine; 0 1 mảnh nilon màu hồng; 03 mảnh nilon màu xanh và vỏ bì niêm phong ban đầu, là vật nhà nước cấm lưu hành, liên quan đến hành vi phạm tội và không còn giá trị sử dụng,nên cần tuyên tịch thu, tiêu hủ .
Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave RSX FI màu sơn trắng đen gắn BKS 25B1 -558.80, chủ sở hữu hợp pháp là anh Tẩn Sài T là chồng của chị Tẩn Sử M. Chị M không biết bị cáo mượn xe để đi thực hiện hành vi phạm tội và đã có đơn xin lại chiếc xe, nên cần tuyên trả lại chiến xe cho chị Tẩ Sử M.
  1. về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 25 1 BLHS. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, công việc và thu nhập không ổn định. vì vậ , Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
  2. về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/20 1 6/UBTVQH 1 4, ngày 30/12/20 1 6 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Quyết định số: 86 1 /QĐ-TTg, ngày 04/6/202 1 của Thủ tướng Chính phủ và ý kiến của bị cáo tại phiên tòa.Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
  3. Các vấn đề liên quan:
Theo lời khai của bị cáo, nguồn gốc số Heroine bị cáo mua được của người đàn ông tên Cấu, nhà ở bản P, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu. Kết quả điều tra xác định trên địa bàn bản P, xã H có người đàn ông tên Thào A C, sinh năm 1 982 có đặc điểm phù hợp với lời khai của bị cáo. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại địa phương nhiều lần nhưng Cấu không có mặt tại địa phương, đi đâu làm gì gia đình và chính qu ền địa phương không biết. Ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu chứng cứ khác chứng minh Cấu có hành vi liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy hay không. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, xác minh nếu đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với người đàn ông tên Q nhà ở xã B, hu ện M, tỉnh Lai Châu là người đặt mua Heroine của T. Kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lý lịch của Q nên không có căn cứ để xác minh làm rõ và xử lý trong cùng vụ án.
Đối với chiếc điện thoại bị cáo dùng để liên lạc trao đổi việc mua bán ma túy với Q và C, bị cáo đã làm rơi, bị cáo không nhớ số điện thoại của C và Q nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ.
Kết quả
 

Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 25 1 ; điểm s khoản 1 , khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 1 06, Điều 135, Điều 1 36, Điều 33 1 , Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2026/UBTVQH 1 4, ngày 30/12/20 1 6 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
  1. về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tẩn Chỉn T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tủy”.
  2. về hình phạt: Xử phạt bị cáo Tẩn Chỉn T 1 5 (mười năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/4/2023.
  3. Xử lý vật chứng:
Tuyên tịch thu tiêu hủy: 44,73 gam Heroine còn lại sau giám định; 01 mảnh nilon màu hồng; 03 mảnh nilon màu xanh và vỏ bì niêm phong ban đầu.
Tuyên trả lại 0 1 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave RSX FI màu sơn trắng đen gắn BKS 25B 1 -558.80. Xe đã qua sử dụng cũ. Xe không thu hồi được đăng ký cho bà Tẩn Sử M, sinh năm 1 989; trú tại: Bản N, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu.
(Tình trạng vật chứng như mô tả chi tiết trong biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lai Châu với Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Lai Châu được lập vào hồi 14 giờ 30 phút, ngày 10 tháng 8 năm 2023)
4. Miễn hình phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Án xử công khai, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 1 5 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình, lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 1 5 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật./
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
top
down