Việc anh Trần Văn L hỏi, chúng tôi xin trả lời như sau:
Tại Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc xác định cha, mẹ như sau:
1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật vừa nêu trên, mọi đứa trẻ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân đều được pháp luật công nhận là con chung của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, trường hợp anh không thừa nhận con do vợ anh sinh ra trong thời kỳ hôn nhân thì phải làm đơn yêu cầu kèm theo chứng cứ (cụ thể trong trường hợp anh hỏi chứng cứ là kết quả xét nghiệm AND giữa cháu bé với anh; Giấy chứng sinh của cháu bé; Giấy chứng nhận kết hôn của vợ, chồng và tài liệu liên quan khác) gửi đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người anh đang cư trú xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật (Điều 29 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
Đối với vấn đề anh yêu cầu ly hôn với vợ là chị Nguyễn Thị M.
Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn; Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ; Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật nêu trên thì anh Trần Văn L có quyền yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết việc từ chối nhận con chung; nhưng không có quyền yêu cầu ly hôn vợ, vì chị Nguyễn Thị M đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi./.
Ý kiến bạn đọc