Tôi có cho vợ chồng người bạn vay tiền. Vì là chỗ thân quen với chị vợ nên mặc dù khi giao tiền có cả hai vợ chồng họ nhưng ký nhận chỉ có người chồng.
Quá hạn phải trả lại tiền tôi gọi điện đòi thì chị vợ trả lời anh chồng ký vay nên chị này không có trách nhiệm gì.
Qua tìm hiểu tôi được biết, sau khi vay tiền của tôi một thời gian, vợ chồng họ đã thỏa thuận chia đôi tài sản chung. Tài sản riêng của anh chồng hiện nay không đủ để trả nợ cho tôi.
Đề nghị các anh chị cho biết, đối với trường hợp nêu trên, chị vợ có trách nhiệm liên đới trả nợ cho tôi hay không?
Trả lời
Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng được quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
“1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan”.
Nếu vợ chồng họ thỏa thuận vay tiền của bạn, về nguyên tắc, cả hai có nghĩa vụ trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho bạn. Ngược lại, nếu giữa họ không có thỏa thuận, người chồng vay tiền của bạn không nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được hiểu nghĩa vụ trả nợ cho bạn là nghĩa vụ riêng của người chồng.
Theo khoản 3 Điều 33 của Luật này, “trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Điều 38 của Luật này quy định về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như sau:
“1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của Luật này”.
Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản. Trong trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định.
Tuy nhiên, theo khoản 4 Điều 39 của Luật này, “quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.
Thêm nữa, khoản 2 Điều 40 của Luật này cũng quy định: “Thỏa thuận của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều này không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba”.
Có nghĩa là, mặc dù pháp luật quy định vợ chồng có quyền thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thành tài sản riêng của mỗi người. Song, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch được xác lập trước đó với người thứ ba, ví dụ như thỏa thuận vay tiền của bạn sẽ không bị thay đổi bởi việc chia tài sản chung.
Bên cạnh đó, theo Điều 42 của Luật này, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“1. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
2. Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;
d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;
đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;
e) Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Nếu việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng người vay tiền của bạn là để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ tiền vay của bạn, thỏa thuận này là vô hiệu.
Ý kiến bạn đọc