Khoảng 22 giờ ngày 17/10/2019 Đỗ Văn T, Đinh Duy H, và Trần Trọng Q cùng nhau lên tượng đài Bác Hồ thuộc tổ 14, phường TP, thành phố LC, tỉnh Lai Châu mục đích đi chơi. Tại đây T, H và Q có gặp, nói chuyện làm quen với Giàng Thị S, sinh năm 2005, trú tại Bản BB, xã GM, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu. Trong lúc cả 04 người đang nói chuyện thì Lý A D sinh năm 1996 và Gì A Th sinh năm 1998 cùng trú tại bản Cư NL, xã SP, thành phố LC, tỉnh Lai Châu, qua chỗ T, H, Q và Sử rồi ngồi lên phía trên tượng đài Bác Hồ để chơi, cách vị trí T, H, Q, Sử khoảng 40m. Nhìn thấy T và D, H rủ Q đi đến chỗ T và D với mục đích nói chuyện, H và Q đứng ở dưới chân tượng đài Bác Hồ, cách vị trí của D và T khoảng 01 mét. H hỏi “hai đứa mày ở đâu ra thế”, D trả lời “bọn em ở đây ra”, H hỏi tiếp “chúng mày nhà ở SP à”, T trả lời “Vâng”. H nói tiếp “thằng em tao vừa bị hai thằng đánh ở dưới kia”, D trả lời “bọn em vừa đi uống rượu về nên không biết”, H nói tiếp “hai thằng đánh mặc áo đỏ”. Nghe Hà nói hàm ý muốn gây sự nên D đang ngồi ở bục tượng đài Bác Hồ nhảy xuống vị trí H, Q đang đứng, thấy vậy T cũng nhảy xuống theo. D nói “chúng mày muốn gì, thích lên đây cà khịa gây sự à”. D vừa nói xong thì Q lao lên dùng tay phải đấm một nhát trúng đầu D, H cũng lao vào đấm đánh D và T. T bỏ chạy xuống vị trí để xe máy phía bên dưới tượng đài Bác Hồ. D đánh trả H và Q, đồng thời dùng tay phải rút một con dao nhọn bằng kim loại dài 21,5cm từ trong túi quần bên phải phía sau mà D mang theo từ trước vung lên đâm, chém loạn xạ xung quanh về phía H, Q khiến H bị thương rách da vùng bụng, Q bị rách da ở vai phải. Thấy D dùng dao, Q nhảy xuống chạy ra phía sau tượng đài Bác Hồ để tìm gạch, đá đánh trả. T thấy đánh nhau liền chạy lên đứng sau và dùng tay phải kéo áo D thì bị D vung dao về phía sau đâm vào mắt trái của T. T lùi lại lấy hai tay ôm mặt chạy xuống phía dưới. Hà lao vào dùng tay phải túm lấy cổ tay phải của D, còn tay trái nắm lấy phần lưỡi dao, đồng thời gọi “Q ơi” để Q giúp sức. Nghe thấy H gọi, Q chạy đến dùng chân phải đạp vào người D làm D ngã xuống, dao tuột khỏi tay H làm H bị rách lòng bàn tay trái, còn Q bị lưỡi dao văng vào rách cẳng tay phải. Sau khi bị Q đạp ngã, D cầm dao đi đến chỗ T hỏi “tại sao chúng mày lại đánh tao”, nhưng do T nói “thôi em xin” nên D bỏ đi xuống chỗ để xe máy và thấy T đang đứng ở đó, D và T cùng lấy xe máy đi về bản CNL, xã SP, thành phố LC, tỉnh Lai Châu). Trên đường về, D có kể cho T nghe về việc trước đó D dùng dao để đánh lại nhóm thanh niên trên tượng đài Bác Hồ và trong lúc giằng co đánh nhau, D bị rơi đôi dép nhựa size 38, kiểu dép lê, màu vàng cam, có quai màu đỏ, trên mặt dép có ghi chữ “KURAGANG” và “MADE IN THAILAND” tại hiện trường. Trước đó D và T, H, Q không quen biết, cũng không có mâu thuẫn gì với nhau. Sau khi sự việc xảy ra, T và Q được H, Sử đưa vào bệnh viện Đa khoa tỉnh Lai Châu để điều trị
Ngày 18/10/2019 ông Đỗ Văn Q (bố của Đỗ Văn T) viết đơn trình báo, ngày 22/10/2019 Công an thành phố LC nhận được đơn trình báo về việc ông Quang đề nghị điều tra việc con ông tên Đỗ Văn T bị người khác dùng dao nhọn đâm vào mắt trái; Ngày 24/10/2019 Đinh Duy H và Trần Trọng Q có đơn trình báo đề nghị Cơ quan Công an xử lý đối tượng dùng dao chém H, Q bị thương.
Đến ngày 03/11/2019, Lý A D đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố LC, tỉnh Lai Châu đầu thú về hành vi phạm tội của mình và tự giác giao nộp 01 con dao nhọn mà D sử dụng để gây thương tích cho anh Đỗ Văn T, Đinh Duy H, Trần Trọng Q.
Tại các bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 116/BKL-TTPY ngày 08/01/2020; số 111/BKL-TTPY ngày 26/11/2019; số 110/BKL-TTPY ngày 05/12/2019 của Trung tâm giám định pháp y Sở y tế tỉnh Lai Châu đã kết luận: “Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Đỗ Văn T hiện tại là 33%”, “Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Trần Trọng Q hiện tại là 8%”, “Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Đinh Duy H hiện tại là 4%”.
Quá trình điều tra ông Đỗ Văn Q (bố của Đỗ Văn T) viết đơn xin rút lại đơn trình báo; Đinh Duy H và Trần Trọng Q đều có đơn đề nghị không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Lý A D.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 15/2020/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2020
của Tòa án nhân dân thành phố LC, tỉnh Lai Châu đã quyết định: Áp dụng điểm c khoản 3, Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a khoản 1
Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a, khoản 3 Điều 106, khoản 2
Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHK14, ngày 30/6/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên bố bị cáo Lý A D phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt bị cáo 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.
Ngày 03 tháng 6 năm 2020, bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung: Không nhất trí về tội danh tại bản án hình sự sư thẩm số 15/2020/HS-ST ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố LC, tỉnh Lai Châu và đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử về tội “Cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” theo Điều 136 Bộ luật hình sự.
Đến ngày 11/8/2020 bị cáo Lý A D có Đơn xin thay đổi nội dung kháng cáo từ thay đổi tội danh “Cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” theo Điều 136 Bộ luật hình sự sang nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, Tòa án cấp sơ thẩm quy kết tội danh là đúng người, đúng tội, không oan sai và đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; người bị hại Đỗ Văn T không đề nghị bồi thường gì và tiếp tục có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu trình bày quan điểm: Đơn kháng cáo và chủ thể kháng cáo, thời hạn kháng cáo đảm bảo theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 3, Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống còn từ 36 tháng đến 40 tháng tù.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội, vì bị cáo tuổi còn trẻ nên bồng bột, thực hiện hành vi phạm tội do bột phát.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng nhận định như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo có đơn kháng cáo, đơn kháng cáo hợp lệ trong hạn luật định, nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, lời khai nhận tội của bị cáo đều phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Vào khoảng 22 giờ ngày 17/10/2019, tại khu vực tượng đài Bác Hồ thuộc tổ 14, phường TP, thành phố LC, tỉnh Lai Châu, bị cáo Lý A D đã có hành vi dùng 01 con dao dạng dao bấm bằng kim loại dài 21,5 cm, phần lưỡi dao dài 10cm, phần chuôi dao dài 11,5 cm, phần rộng nhất của dao rộng 3,5 cm, phần sống dao có nhiều răng cưa, mũi dao sắc nhọn; phần chuôi dao được quấn bằng sợi dây dù màu đen là hung khí nguy hiểm đâm vào mắt trái của Đỗ Văn T làm Toàn bị thương với tỷ lệ thương tích là 33% (tật khúc xạ mắt trái). Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, đã làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn thành phố. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mà bị cáo đã gây ra, nhận thức được hành vi dùng dao nhọn là hung khí nguy hiểm có thể gây tổn hại sức khỏe, tính mạng cho người khác nhưng vì không làm chủ được bản thân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình, kết quả đã gây thương tích cho bị hại Đỗ Văn T với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 33%. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện nội dung vụ án, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, áp dụng điều luật, quy kết tội danh và mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi sự việc xảy ra đã đến cơ quan điều tra đầu thú và cùng với gia đình tự nguyện bồi thường cho bị hại. Tại cấp phúc thẩm bị hại Đỗ Văn T tiếp tục có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, nguyên nhân một phần xuất phát từ việc gây sự và tấn công trước của Q, H là bạn của bị hại. Về gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hiện tại có bố đẻ bị tai nạn, mẹ sức khỏe yếu, bị cáo là lao động chính. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử, xem xét áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được tính nhân đạo của Nhà nước ta mà cố gắng cải tạo mình thành người công dân có ích cho xã hội.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và sửa bản án sơ thẩm. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lý A D, sửa bản án sơ thẩm số 15/2020/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố LC, tỉnh Lai Châu như sau:
Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; Điều 47; Điều 50; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 135; Điều 136;
Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên bố bị cáo Lý A D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Lý A Dình 03 (Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.